Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2010

Giới thiệu các dân tộc Việt Nam

Giới thiệu các dân tộc Việt Nam

Cộng đồng người Việt Nam có 54 thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó dân tộc Kinh (Việt) chiếm gần 90% tổng số dân cả nước, hơn 10% còn lại là dân số của 53 dân tộc.
Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói, chữ viết và bản sắc văn hoá riêng.

Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét trong các sinh hoạt cộng đồng và trong các hoạt động kinh tế. Từ trang phục, ăn, ở, quan hệ xã hội, các phong tục tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ, vui chơi của mỗi dân tộc lại mang những nét chung. Đó là đức tính cần cù chịu khó, thông minh trong sản xuất; với thiên nhiên - gắn bó hoà đồng; với kẻ thù - không khoan nhượng; với con người - nhân hậu vị tha, khiêm nhường... Tất cả những đặc tính đó là phẩm chất của con người Việt Nam.

* 54 dân tộc sống trên đất Việt Nam có thể chia thành 8 nhóm theo ngôn ngữ như sau:

- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Kinh (Việt), Chứt, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
- Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà Thẻn.
- Nhóm Kadai có 4 dân tộc là: Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo.
- Nhóm Nam Đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Ra Glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán Dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.

Nghiên cứu cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung hay văn hoá các dân tộc nói riêng là những công việc không có giới hạn. Càng nghiên cứu, tìm hiểu ta càng thấy say mê, cuốn hút và ta càng thấy thêm yêu đất nước Việt Nam hơn.

Khai thác những nét đặc sắc của nền văn hoá truyền thống các dân tộc là một tiềm năng to lớn cho sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam.

Dân tộc Ba Na

Dân tộc Ba Na

Tên dân tộc: Ba Na (Tơ Lô, Krem, Roh, Con Kde, ALa Công, Krăng).
Dân số: 174.456 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Kon Tum, Bình Ðịnh, Phú Yên.
Phong tục tập quán: Thờ nhiều thần linh, hôn nhân tự do, cưới xin theo nếp cổ truyền, sau khi sinh con đầu lòng mới làm nhà riêng. Ở nhà sàn, mỗi làng có một nhà công cộng (nhà rông) to, đẹp ở giữa làng.

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.

Văn hoá: Nhạc cụ đa dạng: cồng, chiêng, đàn T'rưng, Klông pút, Kơni..., kèn tơ nốt, arơng,... nghệ thuật chạm khắc gỗ phát triển.

Trang phục: Nam đóng khố, nữ mặc váy.

Kinh tế: Làm rẫy và chăn nuôi. Mỗi làng có lò rèn, phụ nữ dệt vải tự lo đồ mặc cho gia đình, đàn ông đan chiếu, dệt lưới, làm gùi, giỏ,... Mua bán theo chế độ đổi hàng.

Dân tộc Bố Y

Dân tộc Bố Y

Tên dân tộc: Bố Y (Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu Nà).
Dân số:
1.864 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.
Phong tục tập quán:
Tôn giáo chính là thờ tổ tiên. Nhà ở thường là nền đất, có một sàn gác trên lưng quá giang - là nơi để lương thực và là chỗ ngủ của những người con trai chưa vợ. Lễ cưới của người Bố Y khá phức tạp. Chàng rể không đi đón dâu, cô em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng.

Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ và 120 ngày đối với tang cha.

Ngôn ngữ:
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Văn hoá:
Vốn văn nghệ dân gian như truyện cổ, tục ngữ, dân ca khá phong phú.

Trang phục:
Nữ mặc váy xèo, áo năm thân và có xiêm che ngực. Một số mặc giống người Nùng, số khác mặc giống người Hán.

Kinh tế:
Sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy.

Dân tộc Brâu

Dân tộc Brâu

Tên dân tộc: Brâu (Brạo).
Dân số: 313 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Làng Ðăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
Phong tục tập quán:
Tự do lấy vợ, lấy chồng, đám cưới tiến hành ở nhà gái, chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 - 3 năm, rồi mới làm lễ đưa vợ về nhà mình. Ngôi nhà truyền thống là nhà sàn.

Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.


Văn hoá:
Người Brâu thích chơi cồng, chiêng. Ðặc biệt có bộ chiêng tha rất có giá trị.

Trang phục:
Nam đóng khố, nữ quấn váy, đều ở trần. Người Brâu có tục xăm mặt, xăm mình và cà răng.

Kinh tế:
Sống du canh, du cư, chủ yếu đốt rừng làm rẫy, công cụ sản xuất thô sơ.

Dân tộc Bru - Vân Kiều

Dân tộc Bru - Vân Kiều

Tên dân tộc: Bru - Vân Kiều (Trì, Khùa, Ma - Coong).
Dân số: 55.559 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
Phong tục tập quán:
Thờ cúng tổ tiên và có tục thờ cúng vật thiêng như thanh kiếm, mảnh bát... Ðặc biệt là tục thờ lửa và thờ bếp lửa. Người trưởng làng có vai trò quan trọng và có uy tín hơn đối với dân làng. Ở nhà sàn nhỏ, nếu gần bờ sông, suối thì các nhà tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy, nếu ở chỗ bằng phẳng, rộng rãi, các ngôi nhà xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng.

Nam nữ tự do yêu nhau. Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định đối với việc hôn nhân, cúng lễ, làm nhà của các con cháu.

Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer.

Văn hoá:
Người Bru - Vân Kiều có vốn văn nghệ cổ truyền quý báu. Nhạc cụ có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn, đàn (achung, pơ-kua...). Có nhiều làn điệu dân ca: chà chấp là lối vừa hát vừa kể, sim (hát đối nam nữ), ca dao, tục ngữ...

Trang phục:
Theo trang phục Tây Nguyên.

Kinh tế:
Làm rẫy, làm ruộng, chăn nuôi, hái lượm săn bắn và đánh cá. Nghề thủ công: đan chiếu lá, gùi...

Dân tộc Chơ Ro

Dân tộc Chơ Ro

Tên dân tộc: Chơ Ro (Ðơ Ro, Châu Ro).
Dân số: 22.567 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Phần lớn cư trú ở tỉnh Ðồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận.
Phong tục tập quán:
Coi trọng chế độ mẫu hệ và phụ hệ như nhau. Người Chơ Ro tin mọi vật đều có "hồn" và các "thần linh" chi phối con người, khiến con người phải kiêng kỵ và cúng tế. Lễ cúng "thần rừng" và "thần lúa" là quan trọng. Trước đây sống ở nhà sàn, hiện nay họ đã ở nhà trệt.

Ngôn ngữ:
Thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer, gần với tiếng Mạ, Xtiêng...

Văn hoá:
Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đàn ống tre, ống tiêu và hát đối đáp trong lễ hội.

Trang phục:
Mặc như người Kinh trong vùng. Nữ thích đeo các vòng đồng, bạc, dây cườm...

Kinh tế:
Chủ yếu làm rẫy. Nay nhiều nơi phát triển làm lúa nước. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắt, đánh cá. Nghề thủ công là đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ.

Dân tộc Chu Ru

Dân tộc Chu Ru

Tên dân tộc: Chu Ru (Cho Ru, Ru).
Dân số:14.978 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Phần lớn ở Ðơn Dương (Lâm Ðồng), số ít ở Bình Thuận.
Phong tục tập quán:
Thờ cúng tổ tiên và chỉ cúng ngoài nghĩa địa. Thờ nhiều thần liên quan đến các nghi lễ nông nghiệp. Sống định canh định cư. Một gia đình gồm 3-4 thế hệ. Hôn nhân một vợ, một chồng, con gái chủ động cưới, người chồng ở rể.

Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Nam Đảo.

Văn hoá:
Làng gồm nhiều dòng họ hoặc khác tộc cư trú. Ðứng đầu là trưởng làng (Pô plây), sau là thầy cúng. Có vốn dân ca, ca dao, tục ngữ phong phú.

Kinh tế:
Nghề làm ruộng lâu đời. Trồng dâu, nuôi tằm, chăn nuôi. Nghề thủ công: đan lát, rèn và làm gốm. Nghề phụ: săn bắn, hái lượm.